Án lệ số 38/2020/AL về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án đã có hiệu pháp luật
Án lệ số 38/2020/AL về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân chia bằng bản án đã có hiệu pháp luật, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 13 tháng 8 năm 2020 và được công bố theo Quyết định số 276/QĐ-CA ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Án lệ này do Hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 5 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
Án lệ số 38 |
Quyết định giám đốc thẩm
số 28/2019/DS-GĐT ngày 12-11-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về vụ án dân sự “Kiện đòi tài sản” tại tỉnh Lâm Đồng giữa nguyên đơn là bà
Tô Thị M và bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ, bà Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan gồm 09 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 2 phần “Nhận định của
Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
Tình huống án lệ :
Sau khi tài sản là quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đã được phân chia bằng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án thì có người khác (không phải là đương sự trong vụ
án đó) khởi kiện đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đó.
Giải pháp pháp lý :
Trường hợp này, Tòa án
không thụ lý vụ án mới. Người có yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
theo quy định của pháp luật.
Quy định của pháp luật
liên quan đến án lệ :
Điểm c khoản 1 Điều 192,
điểm g khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 327, khoản 1 Điều 353 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015.
Từ khóa của án lệ:
“Tài sản được phân chia bằng
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật”; “Kiện đòi tài sản”; “Không thụ lý
vụ án mới”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1.Tại Đơn khởi kiện đề
ngày 18-7-2011, Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 16-6-2015 và các lời khai trong
quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Tô Thị M (do ông Nguyễn Anh D là người đại
diện hợp pháp) trình bày:
Nguồn gốc đất tại số 12
đường G, phường 5, thành phố T (trong đó có 01 phần nhà, đất tranh chấp hiện
nay là số 12A đường G) là tài sản của cha mẹ bà M là cụ Tô Duy H1 và cụ Trần Thị
Đ1, được Sở Xây dựng tỉnh Lâm Đồng cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất số
6015/NĐ-XD Q3,4 ngày 18-12-1989. Nhà có cấu trúc cấp 2, hạng 3, còn 80%, nền gạch
hoa, vách xây, tường đúc, mái bằng, tổng diện tích là 437,9m2, diện tích sử dụng
chính là 315,17m2. Năm 1973, cụ H1 cho bà Hoàng Thị N thuê một phần nhà sau để ở
(số 12A đường G). Năm 1975, gia đình cụ H1 đòi nhà thì bà N xin ở thêm một thời
gian cho đến khi tìm được nơi ở mới sẽ trả nhà. Từ sau năm 1975, gia đình cụ H1
không thu tiền thuê nhà của bà N. Năm 1980, bà N lén lút cho bà Phạm Thị H vào ở
nhà đang thuê của cụ H1. Gia đình bà M đã khiếu nại việc này đến Ủy ban nhân
dân phường 5, thành phố T, nhưng qua hòa giải, gia đình bà M đồng ý cho bà H ở
cho đến khi tìm được nhà.
Năm 2003, bà H kê khai và
xin cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 12A đường
G, phường 5, thành phố T, gia đình bà M tiếp tục yêu cầu bà H trả nhà. Năm
2011, bà H xin được giấy phép xây dựng nhà, nhưng gia đình bà M không biết. Hiện
nay, nhà đất tại 12A đường G, phường 5, thành phố T do bà H và cụ Nguyễn Thị Đ
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Vì vậy,
bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà H và cụ Đ phải hoàn trả gia đình bà M nhà
đất đã chiếm dụng tại 12A đường G, phường 5, thành phố T.
2.Bị đơn là cụ Nguyễn Thị
Đ và bà Phạm Thị H trình bày:
Năm 1994, bà H và ông
Nguyễn Ngọc C (chồng của bà H) nhận chuyển nhượng của bà Hoàng Thị N căn nhà tại
số 12A đường G, phường 5, thành phố T và sử dụng ổn định, không có tranh chấp.
Năm 2002, bà H và ông C ly hôn. Tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số
17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên cụ Đ được sở
hữu 1/2 căn nhà, bà H được sở hữu 1/2 căn nhà nêu trên do vợ chồng bà H mua
chung căn nhà cùng cụ Đ (mẹ của bà H). Ngàỵ 12-01-2004, bà H và cụ Đ được cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyên sử dụng đât ở đôi với căn nhà số 12A
đường G, phường 5, thành phố T. Tháng 3 năm 2011, bà H xin phép cơ quan có thẩm
quyền cho xây dựng lại nhà, vì căn nhà xuống cấp nghiêm trọng. Khi bắt đầu xây
lại nhà, bà H đã trao đổi với bà M về việc đập bức tường mà gia đình bà M tự động
xây lấn sang đất của bà H, nhưng bà M không cho đập và yêu cầu bà H phải trả
nhà. Bà H và cụ Đ xác định: Căn nhà số 12A đường G, phường 5, thành phố T do bà
H và cụ Đ mua hợp pháp của bà N, đồng thời đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà và quyền sử dụng đất nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà M.
Tại Quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm và trả lại đơn khởi kiện số 03/2016/QĐST-DS
ngày 01-8-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:
Đình chỉ giải quyết và trả
lại đơn khởi kiện về vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 03/2012/TLDS-STngày
17-4-2012 về vụ án “Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Tô Thị M với bị đơn
là cụ Nguyễn Thị Đ và bà Phạm Thị H.
Tòa án cấp sơ thẩm còn
tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm,
ngày 18-8-2016, ông Nguyễn Anh D là đại điện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng
cáo không đồng ý với quyết định sơ thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giải quyết
việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT
ngày 30-5-2017, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà: Tô
Thị SI, Tô Duy T, Tô Duy S, Tô Thị Kim NI, Tô Thị Tl, Tô Thị S2, Tô Duy E, Tô
Duy Pl, Tô Thị H2, Tô Thị H3, Tỏ Thị Ngọc L, Tô Duy P2, Tô Duy Lâm S3, Tô Thị
Ngọc H4, Tô Duy H5, Tô Thị Ngọc V, Tô Duy H6 (do ông Nguyên Anh D làm đại diện).
Hủy Quyết định đình chỉ
việc giải quyết vụ án dân sự số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng tiếp tục
giải quyết vụ án.
Tòa án cấp phúc thẩm còn
tuyên về án phí.
Ngày 01-9-2017, Thẩm phán
Bùi Hữu Nhân – Chủ tọa phiên tòa sơ thẩm có đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao
xem xét quyết định phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số
49/2019/KN-DS ngày 31-7-2019, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy quyết định phúc thẩm nêu trên và giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự sơ thẩm số 03/2016/QĐST-DS
ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng và trả lại đơn khởi kiện .
Tại phiên tòa giám đốc thẩm,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ vụ án thể hiện,
bà Tô Thị M khởi kiện cho rằng căn nhà số 12A đường G, phường 5, thành phố T
thuộc quyền sở hữu của cụ Tô Duy HI và cụ Trần Thị Đl, yêu cầu Tòa án xử buộc
bà Phạm Thị H và cụ Nguyễn Thị Đ trả lại cho bà.
[2] Tại điểm c khoản 1 Điều
192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định một trong những trường hợp Tòa án
trả lại đơn khởi kiện là: “Sự việc đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết
định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà
Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đôi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng,
mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người
quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho
thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà
Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện
lại”. Các tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Bản án hôn nhân và gia đình phúc
thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên bà Phạm
Thị H được quyền sở hữu 1/2 căn nhà diện tích 40,73m2, cụ Nguyễn Thị Đ được quyền
sở hữu 1/2 căn nhà diện tích 40,73m2 tại số 12A đường G, phường 5, thành phố T.
Như vậy, nội dung khởi kiện của bà M cho rằng căn nhà số 12A đường G, phường 5,
thành phố T là của cụ H1 và cụ Đ1 đã có bản án đang có hiệu lực xác định quyền
sở hữu căn nhà đó là của cụ Đ với bà H. Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi vê tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản
đó… ”. Như vậy, với nội dung quyết định của Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm
số 17/HNGĐ-PT nêu trên thì bà M không có quyền đòi cụ Đ và bà H trả lại căn nhà
số 12A đường G, phường 5, thành phố T. Cho nên phải xem nội dung yêu cầu khởi
kiện của bà M thuộc trường hợp “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”; nếu bà M không đồng tình với Bản án hôn
nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm
quyền xem xét lại bản án đó theo thủ tục giám đốc thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc
tái thẩm (khi có căn cứ). Do đó, ngày 01-8-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng
ban hành Quyết định số 03/2016/QĐST-DS đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn
khởi kiện của bà M là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm
g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định số
91/2017/QDDS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh hủy toàn bộ Quyết định số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 nêu trên vì cho rằng
quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Đòi tài sản”, có nguyên đơn, bị đơn khác
với nguyên đơn, bị đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình đã được Tòa án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số
17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002 là không đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều
337, khoản 2 Điều 343, Điều 344 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Chấp nhận Quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm số 49/2019/KN-DS ngày 31-7-2019 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
Hủy Quyết định giải quyết
việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QDDS-PT
ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phô Hồ Chí Minh vê vụ án
“Kiện đòi tài sản ” giữa nguyên đơn là bà Tô Thị M với bị đơn là cụ Nguyễn Thị
Đ, bà Phạm Thị H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
Giữ nguyên Quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm và trả lại đơn khởi kiện số
03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[2]… Bản án hôn nhân và
gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa án nhân dân tinh Lâm Đồng
đã tuyên bà Phạm Thị H được quyền sở hữu 1/2 căn nhà diện tích 40,73m2, cụ Nguyễn
Thị Đ được quyền sở hữu 1/2 căn nhà diện tích 40,73m2 tại số 12A đường G, phường
5, thành phố T. Như vậy, nội dung khởi kiện của bà M cho rằng căn nhà số 12 đường
G, phường 5, thành phố T là của cụ HI và cụ ĐI đã có bản án đang có hiệu lực
xác định quyền sở hữu căn nhà đó là của cụ Đ với bà H. Điều 256 Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người
chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật đối với tài sản thuộc quyển sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của
mình phải trả lại tài sản đó… ”. Như vậy, với nội dung quyết định của Bản án
hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT nêu trên thì bà M không có quyền
đòi cụ Đ và bà H trả lại căn nhà số 12A đường G, phường 5, thành phố T. Cho nên
phải xem nội dung yêu cầu khởi kiện của bà M thuộc trường hợp “Sự việc đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nếu bà
M không đồng tình với Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT thì đề
nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét lại bản án đó theo thủ tục giám đốc
thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc tái thấm (khi có căn cứ). Do đó, ngày 01-8-2016,
Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết định số 03/2016/QĐST-DS đình chỉ
giải quyết vụ án và trả lại đem khởi kiện của bà M là phù hợp với quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Quyết định số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy toàn bộ Quyết định số 03/2016/QĐST-DS ngày
01-8-2016 nêu trên vì cho rằng quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Đòi tài sản
”, có nguyên đơn, bị đơn khác với nguyên đơn, bị đơn trong vụ án hôn nhân và
gia đình đã được Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn
nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002 là không đúng”.
Không có nhận xét nào