Án lệ số 34/2020/AL về quyền lập di chúc định đoạt giá trị bồi thường về đất trong trường hợp đất bị nhà nước thu hồi có bồi thường.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 2020 và được công bố theo Quyết định số
50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám
đốc thẩm số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
về vụ án dân sự “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” tại tỉnh
Vĩnh Phúc giữa nguyên đơn là ông Trần Văn Y với bị đơn là Phòng công chứng M;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyên Văn D1.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 5 phần “Nhận
định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình
huống án lệ:
Quyền sử dụng đất
do cá nhân tạo lập hợp pháp mà khi người đó còn sống, Nhà nước đã có quyết định
thu hồi đất và việc thu hồi đất đó thuộc trường hợp được bồi thường.
- Giải
pháp pháp lý:
Trường hợp này,
phải xác định giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi được bảo đảm bằng giá trị bồi
thường nên người có đất bị thu hồi có quyền lập di chúc định đoạt giá trị bồi
thường đó.
Quy định của pháp luật liên quan đến án
lệ:
- Các điều 163,
181, 634, 646, 648 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với khoản 1 Điều 105, các
điều 115, 612, 624, 626 Bộ luật Dân sự năm 2015);
- Điều 42 Luật Đất
đai năm 2003 (tương ứng với Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Từ khóa của án lệ:
“Thu hồi đất”;
“Bồi thường Khi Nhà nước thu hồi đất”; “Thừa kế”; “Di chúc”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện
đề ngày 26-6-2013 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Trần
Văn Y trình bày: Thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 tại khu M, phường N, thành phố
V, tỉnh Vĩnh Phúc có nguồn gốc là do ông nhận chuyển nhượng của cụ Nguyễn Thị C
(tức T, T1) từ năm 1987. Việc chuyển nhượng đất và hoa màu liên quan đến thửa đất
này giữa ông và cụ C có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân phường đồng ý cho ông
đến ở cùng với cụ T1. Năm 1988, Ủy ban nhân dân phường đồng ý cho ông đứng tên
thửa đất này và đổi sang một thửa đất khác vì thửa đất này giáp với đầm nước
không tiện cho việc chăm sóc con nhỏ. Nhưng do không đủ điều kiện làm nhà nên
ông không đổi đất nữa.
Năm 1998, ông và
cụ C làm giấy tờ chuyển nhượng thửa đất trên với giá 140.000.000 đồng. Mặc dù
việc trả tiền không được các bên viết giấy biên nhận, nhưng có 02 người là bà
Nguyễn Thị B (đã chết) và bà Trần Thị K (ở xóm D, phường Đ) chứng kiến việc ông
trả tiền cho cụ C. Khi chuyển nhượng ông và cụ C đã lập Hợp đồng mua bán nhà và
chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 08-02-1998 và nộp tại Ủy ban nhân dân
phường. Năm 2008, gia đình ông không ở trên thửa đất này nữa do đất bị giải
phóng mặt bằng. Năm 2009, giữa ông và gia đình cụ Nguyễn Văn D xảy ra tranh chấp
đối với thửa đất trên. Năm 2013, ông được biết Phòng công chứng M đã công chứng
Di chúc của cụ Nguyễn Văn D và công chứng Văn bản công bố di chúc của cụ D và cụ
Nguyễn Thị T1 ngày 26-01-2011. Theo các văn bản trên thì cụ D có quyền sở hữu,
sử dụng 1 phần thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M, phường N, thành phố V, tỉnh
Vĩnh Phúc; ông Nguyễn Văn D1 là người được hường thừa kế của cụ D và cụ C đối với
thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 diện tích 299,8 m2 tại khu M. Việc
công chứng này không đúng quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của gia đình ông nên ông đề nghị Tòa án tuyên bố 02 văn bản công
chứng trên vô hiệu.
Bị đơn là Phòng
công chứng M (do người đại diện) trình bày: Ngày 14-01-2011, ông Nguyễn Văn D1
chở cụ Nguyễn Văn D đến Phòng công chứng M và yêu cầu công chứng di chúc của cụ
D. Theo cụ D khai thì cụ và cụ T1 lấy nhau không đăng ký kết hôn (hôn nhân thực
tế), cụ T1 không sinh nở được nên cụ D lấy người khác nhưng không ly hôn với cụ
T1. Nhà và đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 tại khu M là tài sản chung hợp
nhất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ D và cụ C.
Về giấy tờ chứng
minh tài sản kèm theo yêu cầu công chứng di chúc, cụ D và anh D1 xuất trình:
- Di chúc của cụ
T1 đã được Ủy ban nhân dân phường S, huyện K, tỉnh Hưng Yên chứng thực theo đó
cụ T1 công nhận tài sản trên (thửa đất 38, Tờ bản đồ số 13) là tài sản chung hợp
nhất với cụ D nên cụ T1 chỉ công chứng di chúc phần của cụ Cho ông D1. Phòng
công chứng M xét thấy di chúc của cụ T1 là hợp pháp.
- Giấy tờ mua
bán (bản gốc) của cụ D mua của ông Đ (văn tự bán ruộng này có xác nhận của Ủy
ban nhân dân xã T), sau đó đổi cho HTX N lấy thửa ruộng cánh đồng M, nay là thửa
đất số 38, Tờ bản đồ số 13.
- Công văn số
405/UBND-TD của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc về việc giải quyết Khiếu nại của
công dân.
- Công văn số
372/UBND-KNTC ngày 07-7-2011 của Ủy ban nhân dân thành phố V trả lời đơn của
ông Nguyễn Văn D.
Hai văn bản này
khẳng định thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 là đất ở, là căn cứ để bồi thường giải
phóng mặt bằng.
Tại thời điểm lập
di chúc, mặc dù cụ D đã trên 90 tuổi nhưng vẫn còn tỉnh táo, minh mẫn, nhận thức
rõ việc làm của mình. Cùng hàng thừa kế thứ nhất là vợ, con, bố, mẹ của cụ D chỉ
còn lại một mình ông D1, không có ai còn vị thành niên, yếu, thiểu năng trí tuệ
không tự nuôi sống được theo quy định của pháp luật dân sự vì vậy nên việc cụ D
có di chúc trao tất cả phần tài sản của mình cho ông D1 là hoàn toàn đúng theo
quy định của pháp luật dân sự về di chúc. Sau khi xem xét các vấn đề nêu trên,
Phòng công chứng M thấy rằng việc lập di chúc của cụ D là hoàn toàn chính đáng,
nội dung di chúc đúng pháp luật nên Phòng công chứng đã làm di chúc cho cụ D.
Ngày 15-01-2011, cụ D đã đến Phòng công chứng để điểm chỉ vào bản di chúc. Trước
khi điểm chỉ, công chứng viên đã đọc lại toàn bộ nội dung di chúc cho cụ nghe,
cụ hoàn toàn nhất trí.
Sau khi cụ D mất,
bản di chúc của cụ có hiệu lực pháp luật, ông D1 đến Phòng công chứng yêu cầu
công bố di chúc và Phòng công chứng đã tiến hành việc công bố theo quy định của
pháp luật. Trong quá trình công chứng và công bố di chúc của cụ D, Phòng công
chứng không nắm được thông tin thửa đất trên đang có tranh chấp. Quan điểm của
Phòng công chứng là đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật.
Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D1 trình bày:
Bố ông là cụ D
và mẹ ông là cụ C kết hôn năm 1957. Năm 1959, bố mẹ ông mua 01 mảnh đất của ông
Đ ở xóm S, phường Đ, thị xã V. Do bố mẹ ông không có con chung nên khoảng năm
1969-1970 cụ C đồng ý cho cụ D lấy cụ H (mẹ đẻ của ông) sống ở khu M, phường N.
Năm 1976, cụ D mua ngôi nhà số 24 N để làm nghề cắt tóc. Cụ T ở ngôi nhà 60 N,
cụ D và cụ H ở khu M. Sau Khi sinh ra ông, cụ H mất. Năm 1968, cụ C bán nhà số
60 N và mua nhà ở phố C. Năm 1986, cụ C bán nhà ở phố C về Hưng Yên sống. Năm
1988, cụ C lại quay về V sống và làm nhà trên thửa đất ngõ 3 tô T. Nhưng vì mảnh
đất này nhiều mồ mả nên cụ chuyển về sống ở khu M với cụ D và các con. Từ năm
2006, cụ C quay về Hưng Yên, ông và cụ D đến để quản lý thửa đất ở khu M nhưng
ông Y không đồng ý. Việc ông Y đề nghị Tòa án tuyên bố 02 hai văn bản công chứng
trên vô hiệu, ông không đồng ý.
Tại Bản án dân sự
sơ thẩm số 10/2014/DS-ST ngày 28-4-2014, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc đã quyết định:
- Tuyên bố Văn bản
Công chứng Di chúc của Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc ngày 15-01-2011 đối với
Di chúc của cụ Nguyễn Văn D, sinh năm 1919 và Văn bản Công chứng Văn bản công bố
di chúc của Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc ngày 26-01-2011 công bố Di chúc
ngày 16-12-2009 của cụ Nguyễn Thị T1 (T), sinh năm 1924 và Di chúc ngày
15-01-2011 của cụ Nguyễn Văn D, sinh năm 1919 vô hiệu.
Ngoài ra, Tòa án
cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 12-5-2014,
ông Nguyễn Văn D1 kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự
phúc thẩm số 23/2015/DS-PT ngày 27-4-2015, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã
quyết định: Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2014/DS-ST ngày 28-4-2014 của
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên.
Ngày 11-4-2016,
ông Nguyễn Văn D1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản
án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số
08/2018/KN-DS ngày 26-4-2018, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã
kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 23/2015/DS-PT ngày 27-4-2015 của
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc; đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ
thẩm số 10/2014/DS-ST ngày 28-4-2014 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa
giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Ủy
ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Cụ Nguyễn
Văn D và cụ Nguyễn Thị C (tên gọi khác là T, T1) chung sống với nhau từ năm
1957 nhưng không đăng ký kết hôn. Năm 1959, cụ D mua thửa đất ở xứ M của ông
Nguyễn Văn Đ, sau đó đổi cho Hợp tác xã N lấy thửa ruộng ở đồng M, nay là thửa
đất số 38, tờ bản đồ số 13. Khoảng năm 1969-1970 cụ D chung sống với cụ H và
sinh ra ông Nguyễn Văn D1.
[2] Ngày
16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại một phần tài sản là bất động sản
tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên cho con trai tôi (ông Nguyễn Văn
D1). Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại Phòng công chứng M, tỉnh Vĩnh Phúc với
nội dung để lại phần tài sản của mình tại thửa đất nêu trên cho ông D1, Khi Nhà
nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư (hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản
trên đất thì ông D1 được đứng tên và nhận tiền. Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày
21-01-2011, cụ D chết. Sau Khi cụ D và cụ C chết, ngày 26-01-2011, Phòng công
chứng M tỉnh Vĩnh Phúc (sau đây viết tắt là Phòng công chứng M) có Văn bản công
bố Di chúc ngày 16-12-2009 của cụ T1 và Di chúc ngày 15-01-2011 của cụ D đối với
di sản của hai cụ là thửa số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M, phường N, thành phố V,
tỉnh Vĩnh Phúc.
[3] Ông Trần Văn
Y cho rằng thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M nêu trên ông đã mua của cụ C từ
năm 1987, đến năm 1998 thì hai bên lập Giấy bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, việc Phòng công chứng M công
chứng di chúc của cụ D, Văn bản công bố di chúc của hai cụ làm ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ông nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố các văn bản công chứng trên vô hiệu.
[4] Theo quy định
tại Điều 45 Luật Công chứng thì người có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản
công chứng vô hiệu gồm có: “Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người
làm chứng, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Để chứng minh mình có quyền, lợi ích liên quan đến văn bản công chứng, quyền khởi
kiện, ông Y xuất trình: giấy ủy nhiệm chi ngày 20-5-2005, số tiền 100.000.000 đồng,
Hợp đồng ủy quyền ngày 23-7-2009 của cụ C cho ông, Giấy bán nhà và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thổ cư ngày 08-02-1998, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ngày 08-02-1998 giữa cụ C và ông... kèm theo đơn khởi kiện. Tuy nhiên, thửa
đất tại xứ M là tài sản chung của cụ C và cụ D nhưng các tài liệu do ông Y xuất
trình thể hiện chỉ có cụ C chuyển nhượng cho ông Y mà chưa có ý kiến của cụ D.
Trường hợp chỉ cụ C tự ý định đoạt tài sản chung của hai cụ mà không có sự đồng
ý của cụ D thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ C
và ông Y. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm
chưa xem xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ do ông Y cung cấp và đánh giá hợp
đồng chuyển nhượng giữa ông Y và cụ C để từ đó xác định ông Y có quyền, lợi ích
đối với di sản là thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 18 và có quyền khởi kiện yêu cầu
tuyên bố các văn bản công chứng vô hiệu hay không mà chỉ xem xét nội dung, hình
thức, thủ tục của các văn bản công chứng và tuyên bố các văn bản này vô hiệu là
chưa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn D1.
[5] Ngoài ra, di
sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số
13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân
dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn
được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập
di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc
thẩm căn cứ vào Bản án số 45/2009/DS-PT ngày 22-5-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc (trong Khi tại bản án phúc thẩm này Hội đồng xét xử chỉ tuyên hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án) để xác định tại thời điểm cụ D lập di
chúc, di sản là một phần tài sản (bất động sản tại thửa số 38, Tờ bản đồ số 13)
không còn nữa là chưa chính xác. Do đó, Khi giải quyết lại vụ án cần xem xét đồng
thời giá trị pháp lý của hợp đồng mua bán nhà, đất giữa ông Trần Văn Y với cụ
Nguyễn Thị C và tính hợp pháp của bản di chúc do cụ D, cụ C lập cũng như Văn bản
công bố di chúc mới giải quyết triệt để vụ án và bảo đảm quyền, lợi ích của các
đương sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm
a khoản 1 Điều 337; khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
1. Hủy Bản án
dân sự phúc thẩm số 23/2015/DS-PT ngày 27-4-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc và Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2014/DS-ST ngày 28-4-2014 của Tòa án nhân
dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về vụ án “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố
văn bản công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn là ông Trần Văn Y với bị đơn là
Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông
Nguyễn Văn D1.
2. Giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[5]...
di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban
nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi
vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập
di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1...”
Không có nhận xét nào