Án lệ số 27/2019/AL
Án lệ số 27/2019/AL về thụ lý,
giải quyết vụ án hành chính liên quan đến nhà đất mà Nhà nước đã quản lý,
bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao thông qua ngày 22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định
số
293/QĐ-CA ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án
lệ:
Quyết định giám
đốc thẩm số 03/2018/HC-GĐT ngày 16-7-2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định giải quyết Khiếu nại”
tại tỉnh Trà Vinh giữa người khởi kiện là bà Hồng Thị L với người bị kiện là
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Vi trí
nội dung án lệ:
Đoạn 6 phần
“Nhận định của Toà án”.
Khái
quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người khởi kiện
khởi kiện quyết định hành chính có nội dung không chấp nhận việc đòi lại nhà
đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính
sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến
nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày
26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội
dung, trình tự thủ tục.
- Giải
pháp pháp lý:
Trường hợp này,
Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bắc yêu cầu khởi kiện.
Quy định
của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Điều 94 Luật
Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
- Điều 7 Luật
Khiếu nại năm 2011;
- Khoản 1 Điều
28, điểm a khoản 2 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với
khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);
- Điều 1 Nghị
quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước đã
quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và
chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991;
- Điều 5 Nghị
quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc
giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991;
- Khoản 1 Điều 4
Nghị định số 127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị
quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội.
Từ khoá
của án lệ:
“Quyết định hành
chính”; “Quyết định giải quyết Khiếu nại”; “Nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố
trí sử dụng”; “Chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ
nghĩa trước ngày 01-7-1991”.
NỘI DUNG
VỤ ÁN
Nguồn gốc căn
nhà số 05 N, khóm 3 phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh là của cụ Hồng Sa R và
cụ Trầm Thị N (là bố mẹ của
bà Hồng Thị L) mua của cụ Nguyễn Thị K vào năm 1967 với diện tích 505m2. Năm
1969, ngôi nhà được ngăn thành 13 phòng sử dụng làm phòng ngủ lấy tên là Phòng
ngủ Thống Nhất. Năm 1972, cụ N và cụ Hồng Sa R xây dựng thêm 01 dãy nhà lầu 03
tầng, 05 căn, 15 phòng ở phía sau với diện tích đất xây dựng là 77m2.
Ngày 13-4-1976, cụ N được Ty thương nghiệp tỉnh Cửu Long cấp Giấy phép hành nghề
số 548/TN/GP/ĐK về việc cho thuê mướn phòng ngủ. Tháng 8-1978, Công ty Khách
sạn ăn uống thị xã Trà Vinh quản lý và tiếp tục kinh doanh phòng ngủ với hình
thức chủ nhà làm nhân viên phục vụ và hưởng lương mỗi tháng.
Ngày 21-8-1984,
Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 về việc quản lý
toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T, tỉnh Trà Vinh của cụ
Hồng Sa R với nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất
đường N, phường 2, thị xã T của cụ Hồng Sa R, gồm phần nhà trước và dãy nhà
phía sau, để cho 03
phòng trệt ở dãy phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng”.
Do hoạt động
kinh doanh không hiệu quả, ngày 28-7-1985, Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban
hành Quyết định số 59/QĐ-85 về việc phân phối nhà với nội dung: “Nay giao
toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất, đường N, phường 2, thị xã T cho Ban Công nghiệp
thị xã Trà Vinh”.
Năm 1990, Công
ty Xuất nhập khẩu thị xã Trà Vinh giải thể, cụ Hồng Sa R vào chiếm lại và sử
dụng.
Năm 1992, cụ
Hồng Sa R có đơn xin lại căn nhà trên. Năm 1993, cụ Hồng Sa R chết, các con của
cụ trong đó có bà Hồng Thị L tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà cho đến nay.
Bà L có đơn xin được xem xét công nhận quyền sở hữu toàn bộ nhà, đất nêu trên.
Ngày 27-7-2012,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-UBND về
việc giải quyết Khiếu nại của bà L như sau:
“Bác đơn Khiếu nại của bà
L yêu cầu hợp thức hóa toàn bộ căn nhà số 05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà
Vinh.
Bà L
được mua lại căn nhà, đất theo địa chỉ số 05 đường N theo quy định tại Nghị
định sổ 61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ ".
Ngày 13-8-2012,
bà L có đơn khởi kiện đối với Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Tại Bản án hành
chính sơ thẩm số 02/2015/HC-ST ngày 26-01-2015, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
quyết định:
“Bác yêu
cầu khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND
ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh”.
Ngoài ra, Tòa án
cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 31-01
-2015, bà Hồng Thị L có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án hành
chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016, Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
“Chấp
nhận đơn kháng cáo của bà Hồng Thị L.
Sửa Bản
án sơ thẩm số 02/2015/HCST
ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Hủy
Quyết định số 1350/QĐ-UBND
ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh về việc giải quyết
yêu cầu của bà Hồng Thị L, sinh năm 1964, ngụ tại số 05 N, khóm 3,
phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có trách nhiệm ban hành Quyết định khác
theo đúng quy định của pháp luật”.
Ngoài ra, Tòa án
cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 10-01-2017,
Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có Công văn số 121/UBND-NC để nghị xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016
của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 23-02-2018,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định số 05/2018/KN-HC kháng nghị Bản
án hành chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số
175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2015/HCST ngày 26-01-2015
của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Tại phiên tòa
giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với việc kháng
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng đề nghị hội đồng xét xử hủy
bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án vì căn cứ vào
Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2006 của Quốc hội thì Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh Trà Vinh không được quyền ra quyết định giải quyết yêu cầu
hợp thức hóa căn nhà của bà Hồng Thị L.
NHẬN
ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1] Về tố tụng: Quyết
định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh
về việc giải quyết Khiếu nại của bà Hồng Thị L được ban hành căn cứ vào quy
định tại Điều 1 Nghị quyết 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất
do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách
quản lý nhà đất và
chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991, theo đó “Nhà nước
không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã
ban hành trước ngày 01-7-1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà
Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về
quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất”. Quyết định số
1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có nội
dung làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của bà Hồng
Thị L. Do đó, theo quy định tại Điều 3 và Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm
2010 thì Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7- 2012 là quyết định hành hình và
là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên việc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải
quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[2] Về nội dung:
[3] Căn nhà số
05 N, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh mà hiện nay bà L đang quản lý, sử
dụng có nguồn gốc là của gia đình bà L. Tuy nhiên, ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân
dân thị xã Trà Vinh đã ban hành Quyết định số 35/QĐ- 84 với nội dung: “Nay
quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường II, thị xã T
của cụ Hồng Sa R.
Gồm phần nhà trước và dãy nhà lầu phía sau. Để cho 03 phòng
trệt dãy lầu phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng... ” và ngày
28-7-1985 Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh ban hành Quyết định số 59/QĐ-85 về
việc giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh quản
lý. Năm 1988, Khi còn sống cụ Hồng Sa R đã có đơn yêu cầu được nhận lại căn nhà
nêu trên. Tuy nhiên, tại Công văn số 01/PĐ- 88 ngày 08-01-1988 của Ủy ban nhân
dân thị xã Trà Vinh và Công văn số 02/TT-NĐ ngày 05-11-1988 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Cửu Long đã trả lời không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của cụ Hồng Sa R
vì nhà thuộc diện cải tạo. Không đồng ý với việc giải quyết của Ủy ban nhân dân
tỉnh Cửu Long, cụ Hồng Sa R có nhiều đơn Khiếu nại. Sau Khi cụ Hồng Sa R chết,
bà Hồng Thị L tiếp tục Khiếu nại.
[4] Tại Công văn
số 358/BXD-TTr ngày 26-02-2007, Bộ Xây dựng đã có ý kiến đối với trường hợp
Khiếu nại của bà L như sau: “Tuy căn nhà nói trên do cụ Hồng Sa R trực tiếp sử
dụng nhưng trước đó Nhà nước đã có quyết định quản lý căn nhà này và thực tế đã bố trí sử dụng từ
sau giải phóng cho đến khi gia
đình cụ Hồng Sa R vào chiếm lại (năm 1990). Vì vậy, Bộ Xây dựng nhất trí với dự
kiến của Ủy ban nhân dân
tỉnh Trà Vinh là cho gia đình cụ Hồng Sa R được ký hợp đồng thuê căn nhà
sô 05 đường N với Nhà nước, sau đó, nêu gia đình cụ R có nhu cầu thì được mua
lại căn nhà này theo Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”.
[5] Như vậy, thông qua việc
ban hành Quyết định số 35/QĐ-84 ngày 21-8-1984 và Quyết định số 59/QĐ-85 ngày
28-7-1985 của Ủy ban nhân dân thị xã Trà Vinh, xác định: “Nhà nước đã quản lý,
bố trí sử dụng trong
quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã
hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất” theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số
23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội về nhà đất do Nhà nước quản lý, bố
trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính
sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991. Vì vậy, việc bà L Khiếu nại
đòi lại căn nhà số 05 đường N là không có cơ sở chấp nhận. Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 không chấp nhận yêu
cầu của bà L là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối với
những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm
quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước
đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính
sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến
nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số
23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành
đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý để giải
quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193
Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, trong vụ án hành chính này Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu
khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày
27-7-2012, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp
luật.
[7] Quyết định
số 1350/QĐ-UBND nêu trên còn quyết định: “Bà Hồng Thị L được mua lại căn
nhà, đất địa
chỉ số 05 đường
N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Nghị
định so 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”. Như vậy, việc cho bà L được mua lại căn nhà, đất nêu trên
theo quy định của Nghị định số 61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ là đã đảm bảo quyền lợi cho gia
đình bà L.
[8] Tòa án cấp
phúc thẩm căn cứ theo khoản 1 Điều 4 Nghị định số 127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của
Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của
Quốc hội và Điều 5 Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội để từ đó chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L, hủy Quyết
định số 1350/QĐ- UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh
là sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.
[9] Quan điểm
của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên tòa giám đốc thẩm là
không có cơ sở chấp nhận; bởi lẽ căn cứ các quy định tại Điều 94 Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011
thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành quyết định giải quyết Khiếu
nại của bà Hồng Thị L là đúng quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT
ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2
Điều 266, khoản 2 Điều 272 và khoản 2 Điều 274 Luật Tố tụng hành chính năm
2015;
1. Chấp nhận
Kháng nghị số 05/2018/KN-HC ngày 23-02-2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
2. Hủy Bản án
hành chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT ngày 25-11- 2016 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số
02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG
ÁN LỆ
“[6] Đối với những trường hợp người khởi
kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có
nội dung không chấp nhận
yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyết định quản lý, bố trí sử dụng
trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại
Điều 1 Nghị
quyết số 23/2003/QH11
ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành
đúng thẩm quyền,
nội dung, trình tự thủ tục thì Tòa án phải thụ lý để giải quyết,
nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện ” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành
chính... ”
Không có nhận xét nào