Người chưa thành niên được sở hữu bất động sản
Vợ chồng tôi nhận một cháu bé làm con nuôi. Chúng tôi muốn cho
cháu một căn nhà, nhưng không hiểu năm nay cháu mới 16 tuổi thì có quyền sở hữu
nhà đất hay không? Nói cách khác, cháu có được đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và sở hữu nhà hay không?
Tư vấn quyền sở hữu tài sản |
Trả lời:
Theo Điều 20 Luật Trẻ em năm 2016, “trẻ em có quyền sở hữu, thừa
kế và các quyền khác đối với tài sản theo quy định của pháp luật”.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có
quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự
như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết. Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nội
dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân như sau:
“1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn
với tài sản.
2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản.
3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ đó”.
Thêm nữa, theo khoản 1 Điều 97 Luật Đất đai năm 2013, “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu
tài sản khác gắn liền với đất theo một loại mẫu thống nhất trong cả nước”.
Căn cứ các quy định nêu trên, con nuôi bạn có quyền sở hữu bất
động sản và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, để cháu có quyền
sở hữu đối với căn nhà mà vợ chồng bạn tặng cho, giữa hai bên phải xác lập và
thực hiện giao dịch cho tặng bất động sản. Cháu không thể tự mình thực hiện
giao dịch này, mà phải thông qua người đại diện. Bởi lẽ, theo khoản 4 Điều 21
Bộ luật này, “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động
sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý”.
Đại diện theo pháp luật của cá nhân được quy định tại Điều 136
của Bộ luật này. Đó là:
“1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp
luật nếu được Tòa án chỉ định.
3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được
người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự”.
Về nguyên tắc, với tư cách cha, mẹ nuôi, các bạn là người đại
diện theo pháp luật của cháu. Song, vợ chồng bạn không thể tham gia giao dịch
cho tặng cháu căn nhà cùng lúc là bên tặng cho và đồng thời là đại diện của bên
được tặng cho. Bởi vì, khoản 3 Điều 141 Bộ luật này quy định: “Một cá
nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau
nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của
người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho
mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Nhà đất là tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng. Cho nên, Hợp đồng tặng cho tài sản này chỉ
có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
Không có nhận xét nào